
Cung Bào hàm chứa các khía cạnh sau: -
Số lượng anh em, chị
em trong gia đình. -
Số lượng trai so với
gái. -
Sự tương hợp hay xung
khắc giữa anh chị em. -
Anh chị em ruột, nuôi,
dị bào. -
Tình trạng sự nghiệp
tổng quát của anh chị em. -
Số phận 1 vài người
đáng lưu ý. -
Ảnh hưởng của anh chị
em đối với mình. Không phải chỉ có các sao tọa thủ ở Bào mới liên quan đến
anh chị em. Phải kết hợp thêm các sao ở các cung Tật, Điền, Nô, Phúc để tìm kết
luận chung. Cũng như đối với cung Phụ mẫu, những chi tiết về anh chị em
ở cung Bào, cũng không nên vội kết luận rằng số lấy sai giờ. Bao giờ cũng nên
nghĩ rằng lá số chính yếu lá số của đương sự, chưa phải là số của thân nhân,
cho nên những điều luận đoán về thân phận không đầy đủ, không hoàn toàn chính
xác và rất tổng quát. Hai cung Phụ và Bào nói lên môi trường sinh hoạt của
một người trong gia đình giữa cha mẹ với anh em. Ảnh hưởng của 2 cung
này quan trọng đối với tiền vận con người hơn là đối với hậu vận, bởi lẽ tuổi
thiếu niên thường hay sống chung với cha mẹ và anh em và chịu sự chi phối của
môi trường một cách mật thiết. 5) Cung Phu Thê Hạnh phúc con người được quyết định một phần lớn bởi gia
đạo. Do đó cung Phu Thê mang một tầm quan trọng đặc biệt. Cung này hàm chứa các
khía cạnh sau: -
Việc lập gia đình
(trước, trong và sau khi lập gia đình). -
Số lượng vợ hay chồng. -
Những mối ngoại tình,
song hôn. -
Tư cách của vợ hay
chồng (vợ lẽ, vợ chánh, nghề nghiệp, công danh, tính tình…) -
Hạnh phúc gia đình
(xum họp, tụ tán, xung khắc, tái giá, sát phu thê, đời sống sinh lý, tâm lý 2
người). -
Số phận của vợ, chồng
(ai chết trước, cách chết…) -
Thời gian lập gia đình
(muộn vợ, muộn chồng…) Các uẩn khúc phức tạp này dĩ nhiên không chỉ chất chứa
trong các sao tọa thủ ở Phu Thê mà tiềm tàng trong các sao xung, hợp chiếu
khác. Đặc biệt là cung Phúc đức và Nô bộc cũng có
giá trị quyết đoán rất mạnh về vợ chồng. Phúc đức ám chỉ hạnh phúc nói chung,
trong đó có hạnh phúc vợ chồng. Nô bộc ám chỉ nhân tình, vợ, chồng bí mật hay
công khai, vợ lẽ, chồng bé… Trong trường hợp đương sự có 2, 3 đời vợ, chồng,
thì 2 cung Quan và Nô phải được kết hợp cứu xét. Có
lẽ cung Quan chỉ người phối ngẫu thứ 2, cung Nô người thứ 3. Đối với trường hợp có quá nhiều “vợ chồng” (như làm điếm)
thì nhất định phải luận đoán trên các cung Mệnh, Thân và các cung chiếu Mệnh,
chiếu Thân. Luận về Phu Thê, thiết tưởng nên lưu ý sao Đào,
Sao Hồng và các sao dâm khác vì tất cả đều có ảnh
hưởng mật thiết đến sự liên lạc trai gái, về tình cảm cũng như về xác thịt, từ
đó có tiếng dội trên hạnh phúc gia đạo về 2 phương diện tinh thân và sinh lý. 6) Cung Tử tức Cung Tử tức trong khoa Tử – Vi đề cập đến: -
Con ruột, -
Con nuôi, -
Con dị bào. -
Giòng dõi nói chung
(tức là con hay không con, số lượng con cái, trai nhiều hay gái nhiều, hay nói
khác đi là sự phong túc hay hiếm muộn, đa đinh hay độc đinh…) -
Hạnh phúc giữa cha mẹ
và con cái và của con cái. -
Tương lai tổng quát
của các con nói chung (số phận, chết, cách chết, dễ nuôi, khó nuôi, tình trạng
con đầu lòng…) -
Thời gian sinh con (có
con rồi mới có gia đình hay có gia đình mới có con). -
Tư cách của cha, mẹ
(trường hợp con ngoại hôn). Các uẩn khúc này cho thấy sự vi diệu của khoa Tử – Vi, vì
xuyên qua con mà biết hạnh phúc gia đình, tính tình cha mẹ. Cung Tử liên hệ mật thiết đến Phúc, Mệnh, Thân. Nếu cung Tử
có nhiều sao sáng sủa, nhưng chẳng may cung Phúc Mạnh, Thân khắc hãm thì cũng khó
nuôi con hay số con bị chiết giảm. Trái lại, cung Tử có nhiều sao xấu mà Phúc
Mệnh Thần lại rực rỡ thì cũng đỡ lo ngại về hiếm muộn. Xem cung Tử nên lưu ý 2 sao Nam đẩu và Bắc
đẩu vì có liên hệ đến sự ước đoán trai, gái. Cung Tử ở Dương hay Âm
cung cũng vậy. Đồng thời phải lưu ý các sao hiếm muộn như:
Vũ Khúc, Thái Âm hãm địa, Phi liêm. Thiên hình, Đẩu quân, Không kiếp, Thái Tuế,
Hòa Linh. Kỵ, Đà, Sát, Tang, Hổ, Lộc tồn, Hỷ, thần, Mộ. Càng hội tụ nhiều sao
hiếm muộn, số con càng ít, có thể đi đến tuyệt tự. Dù sao, các điểm về con cái khám phá được trong lá số chỉ
tương đối chính xác.
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net)