Khẩu quyết an tứ Hóa của Trung Châu phái
Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Tử Âm
Bính Đồng Cơ Xương Liêm, Đinh Âm Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Âm Dương Cơ, Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Dương Vũ Phủ Đồng, Tân Cự Dương Khúc Xương
Nhâm Lương Vi Phủ Vũ, Quý Phá Cự Âm Tham
1- Liêm trinh - can Giáp hóa Lộc
Liêm trinh là sao thuộc về cảm tính, cho nên không đại biểu cho ham muốn
vật chất. Khi Liêm trinh hóa Lộc, tính chất hưởng thụ tinh thần vẫn
nhiều hơn tính chất hưởng thụ vật chất. Do đó trong sinh hoạt ắt sẽ chịu
tiêu sài, lấy mức sống cao để tạo sự thuận lợi về hưởng thụ tinh thần,
tất nhiên sẽ không keo kiệt.
Nhìn bề ngoài, Liêm trinh thích tiêu xài giống Tham lang, nhưng thực ra
bản chất khác nhau. Sự tiêu xài của Tham lang thuần túy thuộc tửu sắc,
còn sự tiêu xài của Liêm trinh thì thuộc "phong hoa tuyết nguyệt", tính
chất thanh nhã hơn, khá xem trong tinh thần và cảm tính.
Liêm trinh thường có sắc thái thủ đoạn, cho nên khi Liêm trinh hóa Lộc,
cũng chủ về dùng thủ đoạn để tiến thủ, như giao tế thù tạc, kết bè bết
phái, .v.v...
Lúc Liêm trinh hóa Lộc, lại gặp các sao Hung - Sát - Hình, sẽ chủ về tửu
sắc. Dùng thủ đoạn càng nhiều thì thù tạc càng nhiều, nhưng cuối cùng
chẳng thu hoạch được gì, mà trong công việc làm ăn, còn bị rơi vào tình
trạng thiếu hụt tiền bạc. Nếu lại còn gặp các sao đào hoa, thường thường
sẽ vì sắc mà phá tài. Nhưng lúc Liêm trinh hóa Lộc gặp đào hoa, mà
không có các sao Sát - Kị, thì lại chủ về nhờ có thù tạc trăng gió, mà
được hiến thân hoặc đắc tài lộc.
Liêm trinh hóa Kị ở nguyên cục (can Bính), lại hóa Lộc ở đại vận hoặc
lưu niên, thường chủ về có hoạnh tài (như đầu tư, đầu cơ, cờ bạc,
.v.v...), nhờ có tài lộc nên rất vui vẻ hạnh phúc.
Tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng" có Liêm trinh hóa Lộc thủ Mệnh ở hai
cung Tý hoặc Ngọ, đối cung ắt sẽ là Phá quân hóa Quyền, cung Quan là Vũ
khúc hóa Khoa, thì chủ về tuy làm chức phó, nhưng lại thường kiêm nhiệm
trọng trách và nắm giữ quyền hành
Đại hạn hoặc lưu niên đến cung hạn này, thường sẽ chủ về chuyển biến
theo hướng tốt lành, nhưng nếu Thái dương hãm tại cung Tị hóa Kị (can
Giáp) ở cung Nô, xung chiếu Cự môn ở Hợi cư Huynh đệ, thì cũng đồng thời
chủ về quan hệ giao tế chuyển biến theo hướng xấu. Tinh hệ "Liêm trinh
Thiên tướng" mang đậm sắc thái chính trị, nên quan hệ giao tế càng thêm
quan trọng. Không thể không chú ý các sao phối hợp.
Tinh hệ "Liêm trinh Thất sát" có Liêm trinh hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung
Sửu Mùi, có Đà la đồng độ, hoặc có Kình Đà vây chiếu, ắt cũng sẽ đồng
thời có Hóa Quyền, Hóa Khoa hội hợp đủ Khoa Quyền Lộc, cung Quan là Phá
quân hóa Quyền, Vũ khúc hóa Khoa ở cung Tị hoặc Hợi, thanh thế cũng cực
hiển hách, quyền lực và nhiệm vụ lớn hơn "Liêm trinh Thiên tướng". Đối
cung mệnh ở Sửu là Thiên phủ ở Mùi có bản chất ổn định, cung Tài có "Tử
vi Tham lang" chủ về tiêu xài, cho nên toàn bộ kết cấu tinh hệ có mức độ
tài lộc rồi dào hơn tinh hệ "Liêm trinh Thiên tướng". Đà la thì sinh
lần nữa, nhưng lúc này cung Huynh là Thiên lương cư Tý, đối cung với
cung Nô là Thái dương cư Ngọ hóa Kị, quan hệ giao tế so với mệnh "Liêm
trinh Thiên tướng" thì lại cần phải chú ý hơn, thường dễ phạm pháp,
tranh chấp, cho đến âm mưu ...
Liêm trinh độc tọa thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà hóa Lộc, có Lộc
tồn cùng bay đến hoặc vây chiếu, cung Quan tại Ngọ hoặc Tý là tinh hệ
"Thiên phủ Vũ khúc" trong đó Vũ khúc hóa Khoa (can Giáp), thì chủ về
tiền bạc có uy tín, hoặc thích hợp nắm quyền tài chính. Nhưng Liêm trinh
đối nhau với Tham lang (Dần Thân), làm nặng thêm tính ham muốn vật chất
của Liêm trinh, vì vậy cũng dễ thành xem trọng hưởng thụ vật chất. Về
sự nghiệp thì thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật, giải trí,
vui chơi, tiêu dùng, làm việc trong chính giới hoặc mậu dịch càng tốt.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ cung Nô tại Sửu Mùi, mượn nhập cung
Huynh đệ, chủ về người dưới quyền nhiều mà không ổn định.
Tinh hệ "LIêm trinh Phá quân" thủ mệnh ở hai cung Mão Dậu, trong đó Liêm
trinh hóa Lộc đồng độ với Phá quân hóa Quyền, có Kình dương đồng cung,
hoặc Kình Đà vây chiếu. Quyền Lộc gặp nhau, chủ về cảnh ngộ thay đổi,
cung Quan là tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" mà Vũ khúc hóa Khoa, càng làm
mạnh thêm tài vận của "Liêm trinh Phá quân", cung Tài là tinh hệ "Tử vi
Thất sát" cũng hữu lực, tam phương có Quyền Lộc rất nặng. Đối cung Mệnh
là Thiên tướng tại Mão, bị "Cự môn Thái dương" có Thái dương hóa Kị, và
Thiên lương của Cơ Lương tại Thìn giáp cung gây ảnh hưởng, khiến "Liêm
trinh Phá quân" cũng dễ bị các tình huống trắc trở ngầm mai phục. Nhân
tố chắc trở của cung mệnh này chủ yếu là tình cảm. Đặc biệt là Thiên phủ
ở cung Phúc (Tị Hợi) hội hợp với Thiên tướng bị sao Hình - Kị giáp
cung, chủ về khó giữ được sự thận trọng. Vì vậy cần phải duy trì thành
tựu đã đạt được mới cát lợi.
Tinh hệ "Liêm trinh Thiên phủ" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Thìn
hoặc Tuất, có Vũ khúc hóa Khoa của tinh hệ "Vũ khúc Thiên tướng" ở cung
Quan tương hội, đối cung là Thất sát, Tài cung là Tử vi độc tọa. Tính
chất của toàn bộ tinh hệ này, thích hợp làm việc trong chính giới, hay
trong quân đội, cảnh sát, vì mệnh tạo này ứng với người kiêm văn võ, có
thể công và có thể thủ, còn giỏi quản lý tài chính. Có điều cung Quan
thiếu lực để ngồi ở vị trí tối cao mà thôi.
Tinh hệ này còn có một đặc điểm, vận tuổi trẻ bát lợi, đến 5 năm cuối
của đại hạn thứ 3 mới bắt đầu khởi sắc. Cứ mỗi đại hạn, thì 5 năm cuối
sẽ tốt hơn 5 năm đầu, thậm chí mỗi năm, nửa năm cuối cũng tốt hơn nửa
năm đầu. Đây là vì "Liêm trinh Thiên phủ" ở cung "thiên la địa võng",
cho nên mọi lợi ích đều chủ về từ từ.
Khuyết điểm của mệnh bàn này là ở cung Huynh đệ, cung Nô và cung Phu
thê. Đặc biệt đối với nữ mệnh, thì cần phải xem trọng tâm trạng của
người phối ngẫu.
Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" khi Liêm trinh hóa Lộc ở hai cung Tị Hợi,
cung Quan có "Vũ khúc Thất sát" hóa Khoa, cung Tài là "Tử vi Phá quân"
hóa Quyền có kèm Đà la hoặc hội hợp với Kình Đà, chủ về tính chất không
giữ được đất đai nhà cửa của ông bà, cha mẹ, mà phải tự lập. Cho nên ở
đại hạn tốt hơn ở tam phương của nguyên cục.
Kết cấu tinh hệ này thích hợp với các nghề liên quan đến nghệ thuật,
hoặc công nghệ, gặp đào hoa cũng có thể thích hợp với sự nghiệp nghệ
thuật, hoặc ngành giải trí, vui chơi, tiêu dùng. Có điều cung Tài là "Tử
vi Phá quân" đồng độ với Đà la, chủ về kiếm được tiền nhưng có hiện
tượng kéo dài và khó tích lũy, còn chủ về bản thân không muốn thù tạc mà
phải tiêu xài quá lớn. Cung Phu thê là Thiên phủ, nếu cung Mệnh hoặc
cung Phúc có các sao "đào hoa", cũng chủ về tái hôn nhưng vợ chồng cũ
vẫn còn vương vấn tình cảm, chưa dứt khoát. Thái dương hóa Kị đến cung
Nô (cung giao hữu) chủ về không đắc lực, mà còn có tranh chấp ngầm.
2- Thiên Cơ - can Ất hóa Lộc
Bản chất của Thiên cơ là mưu chí, linh động quyền biến mà còn nhạy bén.
Cho nên khi Thiên cơ hóa Lộc ắt sẽ "chủ động" tìm được ra cơ hội để tạo
thành sự nghiệp, vì vậy mà được lợi ích.
Nhưng mưu trí và linh động quyền biến của mệnh tạo ít có phách lực (kim
chứa phách) khai sáng sự nghiệp lớn, mà thường thành người khéo đầu cơ,
cho nên vẫn bị giới hạn khá lớn, ảnh hưởng đến thành tựu của sự nghiệp
và tiền bạc. Thiên cơ hóa Lộc, chỉ là nhân tài tham mưu, cố vấn chiến
lược, chủ về kế hoạch, thiết kế, hoặc làm công việc đi đây đi đó cho
người khác (như làm môi giới, thuyết khách, ...)
Do bản chất thích biến động, nên cũng khó giữ một nghề, ưa đứng núi này
trong núi nọ. Cho nên hễ Thiên cơ hóa Lộc ở cung mệnh, cần phải đồng
thời lưu ý các sao ở cung Phúc và các sao ở cung Quan, các sao này phải
có tính chất ổn định và có lực tiến thủ mới tốt. Nếu tính chất các sao
thuộc loại không ổn định mà còn mang tính do dự, thiếu quyết đoán, sẽ
ảnh hưởng đến Thiên cơ hóa Lộc ở cung Mệnh, khiến thành tựu của người
này bị nhiều hạn chế.
"Tiền tài" của Thiên cơ hóa Lộc không thể giữ được lâu, vì vậy, nếu cung
điền trạch tốt, thì nên chú ý cơ hội mua thêm nhà cửa đất đai, nếu
không phải xem cung Phu thê có các sao chủ về tài phú hay không.
Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối cung là Cự môn,
cung Tài là tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" có Thiên lương hóa Quyền
(can Ất), cung Quan là Thái âm độc tọa hóa Kị hoặc kèm có Kình dương
(Canh Tân). Tổ hợp kết cấu nhóm tinh hệ này, vì thành "Cơ Nguyệt Đồng
Lương cách", cho nên bất lợi về kinh doanh làm ăn. Tuy Thiên cơ hóa Lộc,
nhưng "Thiên đồng Thiên lương" lại không phải tổ hợp sao chủ về giầu
có, còn Thiên lương hóa quyền bất quá chỉ trợ giúp Thiên cơ có thể thành
tựu khá lớn. Các sao ở cung Quan không ổn định, thường dễ bị lung lạc
dụ dỗ mà sinh thay đổi, điều này phải dựa vào sức mạnh của Thiên lương
hóa Quyền để tạo quân bình. Tìm sự ổn định như thế nào, là trọng điểm mà
người có nhóm tinh hệ này thủ mệnh phải lưu ý.
Thiên cơ hóa Lộc thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, đối cung là Thiên
lương hóa Quyền, hội hợp với Cự môn ở cung Quan, cung Tài có Thiên đồng
thì đối xung với Thái âm lạc hãm hóa Kị ở cung Mão. Khuyết điểm của nhóm
tinh hệ này hoàn toàn nằm ở cung Tài Bạch, chủ về tay trắng kiếm tiền,
mà nguồn tiền tài lại không rộng, tài khí không vượng, lại còn tiêu pha
lãng phí, chi tiêu không đúng mục đích. Cho nên, tuy Thiên cơ hóa Lộc,
thì vẫn không chủ về tài lộc dồi dào, mà chỉ chủ về có nhiều cơ hội, có
thể dựa vào công tác kế hoạch mà thu nhập cũng khá cao, hoặc làm môi
giới để kiếm tiền, thì lực cạnh tranh của Thiên cơ có thể phát huy.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" ở hai cung Dần hoặc Thân, có Đà la cùng bay
đến, hoặc bị Kình Đà hội chiếu, Thiên cơ hóa Lộc Thái âm hóa Kị, hội hợp
với Thiên lương độc tọa hóa Quyền ở cung Quan cư Ngọ, cung Tài là Thiên
đồng độc tọa, có thể bị Kình Đà chiếu xạ, hoặc đồng độ với Kình Đà.
Nhóm tinh hệ này cũng là cách "Cơ Nguyệt Đồng Lương", cung Mệnh và cung
Tài đều có khuyết điểm, rất có thể thành người thích dùng thủ đoạn, kế
vặt để kiếm tiền, thiếu khí khái gánh vác trọng trách. Vì vậy về sự
nghiệp phần nhiều không ra gì, tiền bạc cũng bị nhiều trở ngại. Đạo "tìm
cát tránh hung" là tránh có cái nhìn thiển cận, chỉ thấy lợi nhỏ trước
mắt, và phải có lòng chân thành trong đối nhân xử thế để được "nhân
hòa", thì mới có thể tự nhiên gặp cơ duyên tiến thân.
Tinh hệ "Thiên cơ Cự môn" ở hai cung Mão hoặc Dậu thủ mệnh có Thiên cơ
hóa Lộc, lại có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, cung mệnh Tài khí rất
vượng, cung Tài có Thiên đồng cư Hợi, cung Quan thì mượn "Thái dương
Thái âm" an cung có Thái âm hóa Kị. Kết cấu tinh hệ Cự Cơ này tài lộc
vượng, thích hợp dùng tài ăn nói để kiếm tiền, nhất là các nghề nghiệp
có tính phục vụ, như nhà hàng, khách sạn, du lịch, môi giới, .v.v... Nếu
có thêm Văn tinh, có thể đảm nhiệm công việc quảng bá.
Các sao của cung Quan không ổn định (ở Sửu Mùi vô chính diệu), dễ thay
đổi nghề nghiệp, hoặc hoán chuyển hoàn cảnh công tác, nhưng rất kị đầu
tư hay đầu cơ, nếu không ắt sẽ bị tổn thất. Đây là vì "Thái dương Thái
âm" hiếu động, trôi nổi, mà Thái âm hóa Kị thì thường ít suy tính trước
khi đầu tư.
Thiên đồng độc tọa cư Tài ở cung Hợi, có sao Lộc đồng độ, chủ về tay
trắng làm nên, nhưng Thiên lương ở đối cung hóa Quyền, có thể vì lý
tưởng quá cao mà bị tổn thất, hoặc chủ về chuốc đố kị, oán trách dẫn đến
tranh chấp, gặp trở lực.
Tinh hệ "Thiên cơ Thiên lương" ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Thiên cơ
hóa Lộc và Thiên Lương hóa Quyền, có Kình dương hội hợp, hoặc bị Kình
dương Đà la cùng chiếu. Cung Quan mượn "Thái dương Cự môn" an cung hội
hợp, lại có Sát tinh đồng cung. Cung Tài là "Thiên đồng Thái âm" mà Thái
âm hóa Kị, còn có Đà la hoặc Kình dương chiếu xạ. Nhóm tinh hệ này,
cung mệnh Cơ Lương hóa Lộc hóa Quyền, tuy lợi về công tác kế hoạch, quản
lý, giám sát, nhưng có Kình Đà hội hợp, thì lý tưởng hơi khó thực hiện.
Vì vậy cơ hội tuy nhiều, nhưng thường khó nắm chắc, cũng khó phát huy.
Các sao cung Tài có bản chất hiếu động, trôi nổi, mà còn bị Đà là hoặc
Kình dương quấy nhiễu gây khó khăn, nên chỉ lợi về tiền bạc trước mắt,
không được quá tham vọng. Nếu có kế hoạch kiếm tiền lâu dài thì khó
tránh gặp sóng gió, trắc trở, nếu kinh doanh làm ăn thì còn có nguy cơ
vỡ nợ. Cung Quan chủ về dễ được người ở phương xa, hay người ngoại quốc
tạm thời ủng hộ (Cự Nhật)
Thiên cơ độc tọa hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đối cung là Thái âm hóa
Kị, cung Tài là "Thiên đồng Cự môn". Cung Quan mượn "Thái dương Thiên
lương" an cung hội hợp, có Lộc tồn đồng cung. Nhóm tinh hệ này, tài lộc
không vượng, rất nên chỉ dùng sở học để kiếm tiền, tiến hành nghiên cứu
học thuật, hoặc tiếp nối tổ nghiệp chớ đừng thay đổi nghề, nếu không sẽ
phí tâm lực, hoặc phí lời nói.
Thiên cơ bị Thái âm hóa Kị gây ảnh hưởng, có thể gặp cơ hội nhưng lại bỏ
qua mà không biết tại sao, cũng chủ về bị dụ dỗ đầu tư mà tổn thất,
hoặc nhận lầm cơ hội, vọng động thay đổi công việc nên bị trắc trở.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" thủ cung Tài, tuy có Thiên cơ hóa Lộc hội
hợp, lại có Lộc tồn cung hội hợp, cũng chỉ chủ về chức cao lương nhiều,
mà vẫn cần phải hao tổn tinh thần, hơn nữa mỗi lần thu nhập tăng thì thị
phi phiền nhiễu cũng kéo đến, khó mà yên thân.
3- Thiên Đồng - can Bính hóa Lộc
Thiên đồng chủ về tay trắng làm nên, khi Thiên đồng hóa Lộc không những
chủ về làm tăng tài lộc, mà còn thường có cơ duyên bất ngờ.
Nhưng nếu có các sao khoa văn đồng cung, thì tổ hợp sao thành quá phong
nhã, dễ mê đắm trong "thanh vận thơ phú" hoặc âm nhạc, ưa hưởng thụ tinh
thần mà ít có ý chí tiến thủ. Tình hình này không mấy thích hợp với xã
hội canh tranh khốc liệt của thời hiện đại.
Nếu có các sao đào hoa đồng độ, phần nhiều cảm thấy tinh thần trống rỗng, nên dễ chuốc lấy những rắc rối về tình cảm.
Thiên Đồng không sợ Sát tinh, nhiều lúc còn thành lực kích phát, cho nên
có cách "phản bối" và "Mã đầu đới kiếm". Dù không thành Cách, nhưng có
gặp một hai Sát tinh cũng không ngại, phần nhiều chủ về trung niên vất
vả, đến vãn niên mới có thể hưởng thụ.
Sau khi hóa Lộc, Thiên Đồng dễ chìm đắm trong dục lạc, nên ở vận hạn mà
hóa Lộc thì tốt hơn là hóa Lộc ở tinh bàn của nguyên cục. Bởi vì ở đại
hạn hoặc lưu niên, bản chất chìm đắm dục lạc sẽ không nặng (lúc này cũng
không cần có sát tinh kích phát).
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm" ở hai cung Tý hoặc Ngọ thủ mệnh, khi Thiên
đồng hóa Lộc, hội với "Thiên cơ Thiên lương" ở cung Quan (ở Thìn hoặc
Tuất) mà Thiên cơ hóa Quyền. Cung Tài mượn "Thái dương Cư môn" an cung
(ở Dần hoặc Thân). Ở xã hội hiên đại, nhóm tinh hệ có kết cấu dạng này,
nữ mệnh thì dễ phát, còn nam mệnh thì dễ được người khác giới xem trọng
ưu ái, nhưng lại không phải là tốt lành, do quá an nhàn, tình cảm phong
phú, rất có thể vì vậy mà ảnh hưởng đến sự nghiệp. Nếu Văn xương hóa
Khoa ở cung Mệnh hay cung Phúc, hoặc có Sát tinh kích phát, thì mới chủ
về thành tựu. Nhóm sao này muốn phát lên, thường phải khởi nghiệp bằng
các nghề mang tính phục vụ (như luật sư, kiểm toán viên, .v.v...), hoặc
viên chức cao cấp trong Cty lớn hay nhà nước, được như vậy thì sẽ tiến
triển mà không phải tốn quá nhiều sức, nhưng phải hao tổn lời nói. Người
có Văn xương hóa Khoa hội hợp cung Mệnh, sẽ nhờ danh tiếng mang lại cơ
hội.
Tinh hệ "Thiên đồng Cự môn" ở hai cung Sửu hoặc Mùi thủ mệnh, khi Thiên
Đồng hóa Lộc, hoặc gặp Lộc tồn đồng ở cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền
(tại Tị hoặc Hợi). Cung Tài mượn "Thái dương Thiên lương" an cung (ở Mão
hoặc Dậu). Gặp sao Lộc nặng chưa chắc là hợp với "Thiên đồng Cự môn",
chủ về ưa thích thanh nhàn. Nếu lại gặp đào hoa, hoặc "sao lẻ" phụ tá
(nhất là Văn xương hoặc Văn khúc), thì chủ về gặp rắc rối trong tình
cảm, thường dễ bị đau khổ vì tình. Nếu cung Mệnh có sao Lộc nhẹ, thì mới
chủ về tài lộc dồi dào, nhưng cuộc đời vẫn có một thời kỳ gian khổ.
Cung Quan là Thiên cơ "Lộc trùng điệp" thích hợp với công tác kế hoạch
tài vụ, tài chính, kinh tế, vặch kế sách, nhưng cũng phải hao phí nhiều
tâm lực trong công việc. Khuyết điểm của nhóm tinh hệ này là cung Tử tức
(??? kiểm) không tốt, chủ về dễ bị người do mình đề bạt đoạt quyền.
Tinh hệ "Thiên đồng Thiên lương" ở hai cung Dần hoặc Thân thủ mệnh, khi
Thiên đồng hóa Lộc ắt sẽ bị Kình Đà chiếu xạ. Cung Quan là Thiên cơ hóa
Quyền (ở Tý hoặc Ngọ). Cung Tài là Thái âm độc tọa (ở Thìn hoặc Tuất),
có Kình Đà củng chiếu, hoặc Đà la đồng độ. Tinh hệ có kết cấu dạng này
ưa Kình dương mà ghét Đà la. Gặp Đà la hội chiếu sẽ dễ thành người thích
tán gẫu, lười biếng, uể oải, nếu gặp thêm các sao khoa văn và đào hoa,
thì chú trọng sự thú vị và tính cách điệu trong sinh hoạt tình cảm. Đối
với sự nghiệp và tiền tài sẽ vì vậy mà thờ ơ, tiêu cực. Nếu có Kình
dương kích phát, thì sự nghiệp có thể phát triển vững vàng, mà nguồn
tiền tài cũng nhờ đó mà thuận lợi toại ý. Có điều nếu cung Tài là Thái
âm đồng độ với Đà la thì kiếm được đồng tiền rất hao tổn sức lực, mà
nguồn tiền tài có lúc còn bị trở ngại, nhiều tranh chấp, bôn ba vất vả.
Nếu không có Đà la đồng độ, thì kiếm tiền chỉ hơi vất vả mà thôi. Bản
chất của "Thiên đồng Thiên lương" lợi về phục vụ, cũng chủ về danh
tiếng. Nếu có Văn xương hóa Khoa hội hợp, thì phải chú ý bồi dưỡng sự
vinh dự của bản thân.
Thiên đồng độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, đối cung
là Thái âm. Cung Tài là Cự môn, có Lộc tồn cùng hội hợp với cung mệnh (ở
Hợi hoặc Tị). Cung Quan là Thiên cơ hóa Quyền (ở Mùi hoặc Sửu). Kết cấu
tinh hệ này có Quyền Lộc hội hợp, cho nên sự nghiệp sáng sủa. Nhưng
Thiên đồng thủ Mệnh vẫn không nên gặp Lộc nặng (năm Ất Tân), sẽ chủ về
dưỡng thành tâm lý ỷ lại, nữ mệnh thì thích trang điểm, chải chuốt quá
đáng, nam mệnh thì thích an nhàn, như vậy dù cơ hội đến nhiều, thường
cũng dễ mất. Cung Tài là Cự môn có sao Lộc, đối chiếu với Thái dương,
chủ về được người ngoại quốc hay người ở phương xa đề bạt nâng đỡ, thích
hợp với nghề kinh doanh bán lẻ, nghề cần đến tài ăn nói, hoặc phải hao
tổn tâm lực. Cung Tử tức tuy Liêm trinh hóa Kị, nhưng đồng cung với
Thiên tướng, nếu thành cách "Tài Ấm giáp ấn", còn chủ về được người dưới
quyền trợ lực. Nếu không thành Cách, thường thường dễ bị gây phiền
phức.
Thiên đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, có Đà la đồng độ,
hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung quan là "Thiên cơ Thái âm" mà Thiên cơ
hóa Quyền (ở Thân hoặc Dần), ắt sẽ bị Kình dương hoặc Đà la chiếu xạ.
Cung Tài là Thiên lương đồng độ với Kình dương (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc bị
Kình dương Đà la chiếu xạ. Lúc Thiên Đồng ở cung Thìn đồng độ với Đà La,
thì dễ lãng phái thời gian một cách vô ích, tiền bạc cũng chật vật mới
kiếm được. Khi thiên Đồng ở cung Tuất, Đà La chiếu xạ gây "kích phát",
nhưng cung Tài là Thiên Lương đồng độ với Kình Dương; Thái Dương của đối
cung lại lạc hãm, lực hóa giải không đủ, nên khó kiếm được tiền mà còn
bị gây trở ngại; chủ về trung niên phát mạnh, lúc đầu rất khó khăn nhưng
về sau có thành tựu, nhưng cuộc đời dễ vì tiền bạc mà xảy ra kiện tụng,
hoặc bị ngầm tranh chấp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực. Tinh hệ
dạng này không nên quá thờ ơ đối với tiên bạc, mà cũng không nên xem
trọng thái quá, nếu không ắt sẽ gặp bất lợi.
Thiên Đồng thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Tị hoặc Hợi, đồng độ với Lộc tồn,
hoặc có Lộc tồn vây chiếu hay hội hợp, thành cách "Lộc trùng điệp",
thường chủ về nhờ thừa kế của cha mẹ mà có sản nghiệp. Cung Tài mượn
"Thái dương thái âm" nhập cung Sửu, gặp Lộc tồn, lợi hơn là mượn nhập
cung Mùi, khá thiếu tính ổn định. Cho nên Thiên đồng hóa Lộc ở cung Tị
thì tốt hơn ở cung Hợi. Nhưng Thiên đồng ở cung Tị thì "Lộc trùng điệp",
tuy có "phụ ấm", nhưng dễ biến thành người lần nữa, cẩu thả. Lúc sự
nghiệp có nguy cơ (thường do người dưới quyền xâm phạm). "Thiên cơ Cự
môn" của cung Quan mới sinh phấn chấn cải cách, Thiên cơ hóa Quyền cũng
mang ý nghĩa tổ nghiệp suy thoái, phải tự lập nghiệp, tất nhiên phải cần
hao tốn nhiều tâm lực, thì sự nghiệp mới được thành tựu. Nếu có Văn
xương hóa Khoa hội hợp sẽ làm tăng tính ổn định về sự nghiệp. Cung mệnh
gặp các sao đào hoa thì chủ về thất chí, nữ mệnh càng dễ cảm thấy trống
rỗng. Gặp "sao không" là danh sỹ nhàn đàm, nữ mệnh càng nhiều cảm giác
"trống vắng dưới trăng trước hoa".
4- Thái Âm - can Đinh hóa Lộc
Thái Âm là sao tiền tài, đương nhiên thích hóa thành sao Lộc, chủ về dư
giả. Nhưng so với Vũ Khúc hóa Lộc, có thể nói là Thái Âm thiếu hành động
kiếm tiền, thiếu "sức" cạnh tranh. Có thể giàu có hay không, vẫn cần
phải xem có lợi về sự tiến triển hay không; hoặc đại vận có "tài khí"
dồi dào hay không mà định. Nếu không, dù Thái Âm có hóa Lộc cũng bình
thường mà thôi.
Hơn nữa, lúc Thái Âm hóa Lộc, thì Cự Môn tất cũng đồng thời hóa Kị ở
cung Phúc, mà cung Phúc gây ảnh hưởng đến cung Tài (hai cung này luôn
luôn đối nhau). Thái Âm vốn có "khí chất" dễ dãi, bị ảnh hưởng của Cự
môn hóa Kị sẽ biến thành thích tranh chấp, tâm tình âu lo tính toán thái
quá, khiến cho khí chất ban đầu thay đổi rất lớn. Lại còn do không giỏi
tranh chấp theo kiểu mạnh bạo, nên đời người đương nhiên sẽ gặp nhiều
cảnh ngộ đáng tiếc.
Vì vậy Thái Âm hóa Lộc ở mệnh bàn không bằng hóa Lộc ở đại vận. Do ở đại
vận không chủ về bản chất, nên mới chủ về nguồn tiền tài thuận lợi toại
ý.
Thái Âm hóa Lộc ở cung hãm, chủ về một loại cảm giác sung sướng về tâm
lý, nếu không có các sao khác hội hợp, thì không chủ về tài lộc dồi dào.
Có điều, Thái Âm sau khi hóa Lộc, sẽ có tính chất cải thiện về những
bất lợi đối với lục thân.
Thái Âm hóa Lộc ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Kị ở lưu niên hoặc đại
hạn, có thể ví là tiền tài thấy trước mắt thèm rõ rãi, nhưng không nên
bị dụ dỗ mà đầu tư, tránh hết sức vì tình cảm dao động mà dẫn đến phá
tài.
Thái Âm hóa Kị ở nguyên cục, lại Hóa thành sao Lộc ở lưu niên hoặc đại
hạn, chỉ cần không bị dụ dỗ đầu tư, thì trái lại, có thể kiếm tiền một
cách thuận lợi trong bối cảnh rối ren thị phi.
Thái Âm hóa Lộc ở cung mệnh của nguyên cục, cung Phúc là Cự môn hóa Kị,
bất kể nam mệnh hay nữ mệnh, đều cần phải chú trọng vấn đề tình cảm. Nếu
không thể lấy ý chí khắc phục tình trạng bị dụ dỗ về tình cảm, thì hậu
quả là đời người sẽ gặp rắc rối rất khó xử trong thực tế, nhưng lại có
một thiên tình sử để nhớ !!!
Tinh hệ "Thiên đồng Thái âm"thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ, khi Thái Âm
hóa Lộc, Thiên Đồng hóa Quyền, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu,
như vậy là "sao Lộc" nặng, thì vấn đề tình cảm càng thêm nghiêm trọng.
Nhưng tinh hệ này thường thường lại tượng trưng cho sự thông hôn với
người nước ngoài, nữ mệnh càng đúng. Cung Quan có "Thiên cơ Cự môn" mà
Cự môn hóa Kị, chủ về giao thiệp với người ngoại quốc (hay người ở
phương xa), vì vậy cũng thích hợp làm việc cho Cty nước ngoài, lao tâm
lao lực là không tránh được. Do cung Tài và cung Phúc thiên về vất vả,
còn cung Mệnh thiên về nhàn hạ, do đó vấn đề tình cảm càng dễ biến thành
vỏ bề ngoài của mệnh tạo. Nhóm tinh hệ này không toàn mỹ, ngoài vấn đề
tình cảm ra, thì còn có điều tiếng thị phi.
Tinh hệ "Thái dương Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Sửu hoặc Mùi, có Thái
âm hóa Lộc. Cung Quan là Thiên lương đồng độ với Lộc tồn (ở Tị hoặc
Hợi). Cung Tài mượn "Thiên cơ Cự môn" nhập cung (ở Dậu hoặc Mão) có
Thiên cơ hóa Khoa còn Cự môn hóa Kị. Nhóm tinh hệ này tài lộc không
vượng, khó tích lũy, vì cung Mệnh cung Tài và cung Phúc đều không ổn
định; hơn nữa trước khi kiếm được tiền ắt lại có nhiều phiền phức, tài
khí càng nhiều thì phiền phức càng lớn, nên sau khi kiếm được tiền cũng
nhiều thị phi. Cho nên gặp chúng ở lưu niên hay đại hạn thì tốt hơn ở
mệnh bàn nguyên cục. Ở niên vận bất quá chỉ rắc rối khó xử về tình cảm
mà thôi.
Tinh hệ "Thiên cơ Thái âm" thủ mệnh ở hai cung Dần hoặc Thân, mà Thái âm
hóa Lộc còn Thiên cơ hóa Khoa, ở cung Dần (hoặc Thân) gặp Lộc tồn trùng
điệp. Cung quan là Thiên lương (ở Ngọ hoặc Tý). Cung Tài là Thiên đồng
hóa Quyền (ở Tuất hoặc Thìn). [Chú: phần này sách dịch nhầm, nên
saobienden có chỉnh sửa để phù hợp theo tinh bàn - kiểm ???]. Nhóm tinh
hệ này, Thái âm hóa Lộc thì tốt hơn Thiên cơ hóa Lộc, kết cấu khá đường
đường chính chính, cung Tài có Thiên đồng hóa Quyền càng chủ về nguồn
tiền tài ổn định, tay trắng làm nên, vãn niên ắt dễ giầu có. Cung Quan
là Thiên Lương gặp hóa Lộc, hoặc cách "Lộc trùng điệp" rất thích hợp với
giới công chức ngành bảo hiểm, công chứng, .v.v... nếu làm việc trong
chính giới thường hay bị hối lộ, vì vậy nên làm chức vụ nhỏ về giám sát
tài vụ, kế hoạch. Có điều cung Phúc có Cự môn hãm ở "thiên la địa võng"
nên nội tâm thường không được yên ổn.
Thái Âm độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Mão hoặc Dậu, hội Kình
Dương hay Đà La. Cung Quan là Thiên lương độc tọa (ở Sửu hoặc Mùi), đồng
độ với Đà la, hoặc bị Kình Đà hội chiếu. Cung Tài là Thái dương độc tọa
(ở Hợi hoặc Tị), đối cung là Cự môn hóa Kị đồng độ với Đà La, hoặc bị
Kình Đà hội chiếu. Tinh hệ này, do Thái âm hóa Lộc và Thiên đồng hóa
Quyền đối nhau, gọi là "Độc tọa tương hội", là kết cấu khá tốt, tuy bôn
ba vất vả, không cách nào có thời gian hưởng thụ trong đời người, nhưng
mệnh tạo lại cảm thấy vinh dự và thỏa mãn, lúc vãn niên thường cho rằng
mình đã sống không uổng phí kiếp người. Nhóm tinh hệ này, nam mệnh và nữ
mệnh đều có dáng vẻ mỹ quan, dễ được người khác giới để ý, nên cũng
thích hợp làm những nghề mà đối tượng khách hàng là khác giới. Cung Phúc
ở cung Hợi thì nội tâm bình lặng hơn ở cung Tị.
Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung Tuất lại
trùng điệp hội Lộc tồn, mà còn là vượng địa, nên tốt hơn nhiều so với
cung Thìn. Cung Quan là "Thiên đồng Thiên lương" mà Thiên đồng hóa Quyền
(ở Thân hoặc Dần). Cung Tài là Thiên cơ hóa Khoa (ở Tý hoặc Ngọ), hoặc
có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu, nhưng cũng sẽ đồng thời vây chiếu Cự
môn hóa Kị. Ở "tam phương tứ chính" có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa, Lộc
tồn phối trí cân xứng, do đó đây là kết cấu đẹp, chủ về kiếm được tiền
lâu dài, dù có bị tranh chấp thì cũng dễ ứng phó (nhất là Thái Âm ở cung
Tuất, cung Quan mạnh hơn cung Tài, thường có thể kế thừa sự nghiệp của
cha mà kinh doanh làm ăn, còn có thể phát dương quang đại), vẫn nên làm
nghề bán lẻ, nghề quảng bá hay phục vụ; cũng có thể làm công chức hay
những nghề có sắc thái quảng bá. Cung Phúc là Cự môn hóa Kị ở cung Ngọ
ắt sẽ có Kình Đà giáp cung, không những không được yên ổn, dễ chuốc điều
tiếng thị phi chèn ép, mà còn có áp lực "quan phi", hôn nhân cũng
thường bất lợi. Cung Phúc ở Tý có đỡ hơn nhưng mức độ chỉ giảm nhẹ mà
thôi.
Thái Âm thủ mệnh hóa Lộc ở hai Tị hoặc Hợi, đối nhau với Thiên cơ hóa
Khoa, mệnh ở cung Hợi tốt hơn, ở cung Tị thì Thái âm lạc hãm, chủ về bôn
ba vất vả, không ổn định để theo giữ một nghề. Cung Quan là "Thái dương
Thiên lương" được Quyền Lộc chiếu (ở Dậu hoặc Mão), có Văn xương đồng
độ thích hợp với lĩnh vực nghiên cứu học thuật, nếu không có thể làm
viên chức NN hay Cty lớn cũng phù hợp, cũng có thể theo ngành y dược,
công tác xã hội, , gặp Văn khúc thì thích hợp làm môi giới bảo hiểm.
Cung Tài là "Thiên đồng Cự môn" một hóa Quyền một hóa Kị, kiếm tiền ắt
phải hao tổn tâm lực, rất vất vả về nói năng thuyết phục. Vấn đề tình
cảm cũng là khuyết điểm của tinh hệ này.
5- Tham Lang - can Mậu hóa Lộc
Bản chất của Tham Lanh vốn đã chủ về ham muốn vật chất, nên lúc Hóa Lộc ý
nghĩa của ham muốn vật chất càng tăng. Bản chất của Tham Lang cũng giỏi
giao tế thù tạc, lúc hóa Lộc có thể nhờ thù tạc mà phát triển sự
nghiệp, từ đó kiếm tiền.
Tham lang hóa Lộc còn có bản chất đầu cơ. Có Hỏa linh, Linh tinh đồng
độ, thì đầu cơ có thể thu lợi, nhưng cũng cần chú ý xem vận hạn có thích
hợp không. Nếu có Kình dương, Đà la đồng độ hoặc hội chiếu, thì không
nên đầu cơ.
Tham lang hóa Lộc mà có các sao đào hoa hội hợp, thì ham muôn vật chất
và sắc dục đều nặng. Cần lưu ý vận hạn, đề phòng vì sắc mà phá tài.
Nếu tham lang hóa Lộc mà có Kình Đà Không Kiếm đồng độ, sẽ chủ về vì
giao tế thù tạc mà phá tài, hao tốn tiền bạc không chỉ vì thù tạc trong
công việc, mà còn vì giao du với bạn xấu.
Tham lang hóa Lộc thành cách "Hỏa Tham", "Linh Tham", ắt sẽ có khoảng
tiền lớn bất ngờ, nhưng sau khi phát tài cũng chủ về dễ thất bại. Vì vậy
không nên cứ mãi chuyên chú ở nguồn tiền bất ngờ.
Tham lang độc tọa thủ mệnh, hóa Lộc ở hai cung Tý hoặc Ngọ, đối nhau với
Tử vi. Cung Tài là Phá quân. Cung Quan là Thất sát. Trong hai cung Tý
Ngọ, ở cung Tý thì có ý vị "phiếm thủy đào hoa", vì vậy ở cung Ngọ tốt
hơn và là cách "Mộc Hỏa thông minh". Cho nên tuy cùng là Hóa Lộc, mà ở
cung Ngọ thì kiếm tiền khá nhiều, cũng dễ tích lũy, còn ở cung Tý thì
thường dễ tiêu xài, hao tổn vì người khác giới. Phá quân thủ cung Tài,
ưa đầu cơ mạo hiểm, giầu năng lực sáng lập sự nghiệp, hoặc ưa làm những
công việc có tính khai sáng hay có tính độc lập. Nhưng khả năng giữ tiền
không được tốt, đây là khuyết điểm của nó. Tinh hệ này, Thiên cơ hóa Kị
ở cung Nô, hội chiếu cung Huynh, vì vậy không nên hợp tác với người
khác để gây dựng sự nghiệp, người dưới quyền cũng thiếu trợ lực.
Tinh hệ "Vũ khúc Tham lang" đồng độ ở hai cung Sửu hoặc Mùi, mà Tham
lang thủ mệnh hóa Lộc, ở cung Sửu còn hội Lộc tồn tốt hơn cung Mùi. Cung
Quan là "Tử vi Thất sát" hội hợp với Lộc tồn, khí thế bàng bạc. Cung
Tài là "Liêm trinh Phá quân" ở cung Dậu, thì "Lộc trùng điệp", nên an
Mệnh ở cung Sửu thì "tài khí" ắt sẽ lớn hơn ở cung Mùi. Nhóm tinh hệ này
chủ về đời người biến đổi đa đoan, tài vận cũng biến đổi vô thường,
nhưng đủ sức kiếm tiền, còn nhờ giao tế thù tạc mà có cơ hội tốt, nên ắt
sẽ dư giả. Mệnh ở cung Sửu không những cục diện sự nghiệp lớn mà tài
lộc cũng dồi dào. Tinh hệ này có khuyết điểm là thường dễ bất cẩn, sơ
sót trong việc giáo dục con cái. Đồng thời trong nội bộ môi trường làm
việc (Cty, công sở, mối quan hệ nhóm làm ăn) cũng thiếu mạch lạc, lớp
lang, thường xảy ra tệ "có người thì làm việc đoàng hoàng, không có
người thì nghỉ".
Tham lang thủ mệnh hóa Lộc ở hai cung Dần hoặc Thân, ở hai cung độ này
Tham lang hóa Lộc đều có khuyết điểm, dễ "bạo phát bạo tàn". Cho nên ở
đại vận mà gặp nó thì có lợi hơn là gặp ở cung Mệnh nguyên cục. Ở cung
Dần thì khá tốt, biên độ lên xuống nhỏ. Ở cung Thân thì tay trắng sáng
lập sự nghiệp, nhưng lại bị cách "Mộc bị Kim khắc chế", thường phải trải
qua gian khổ mới có được tiền của, rồi lại phá tán, thất bại tiếp. Tham
làn hóa Lộc chỉ chủ về sau khi phá tán, thất bại, thì vẫn còn cục diện
để đứng lên mà thôi. Cung Tài là Phá quân cũng chủ về lên xuống bất
thường, đồng độ với Đà La sẽ chủ về tài vận đến chậm. Cung Quan là Thất
sát, vì vậy không nên đầu cơ, thích hợp với những ngành nghề giải trí,
vui chơi, hưởng thụ, trang điểm, nghệ thuật, tiêu dùng.
Tinh hệ "Tử vi Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Mão hoặc Dậu mà Tham lang
hóa Lộc. Cung Tài là "Vũ khúc Phá quân ắt sẽ có Lộc tồn đồng độ hoặc vây
chiếu. Ở hai cung độ này đã đủ tượng trưng cho lực "xung kích", sức
cạnh tranh rất mạnh, do đó dễ có cơ hội kiếm tiền gây dựng sự nghiệp,
người này đều không chịu bỏ qua. Cung Quan là "Liêm trinh Thất sát",
cũng mang ý vị quyền lực và thủ đoạn phối hợp hỗ tương với đặc tính của
"Tử vi Tham lang". "Vũ khúc Phá quân"thủ cung Tài, chỉ chủ về đặc trưng
dùng đồng tiền có mục đích, có chủ đích xác đáng. Nhưng đối với người
khác giới thì họ cực kỳ hào sảng. Nếu là nữ mệnh thì không có khuyết
điểm này, nên nữ mệnh ưu hơn nam mệnh. Tinh hệ này nên đề phòng người
hợp tác hay người dưới quyền xâm phạm.
Tham lang thủ mệnh hóa Lộc độc tọa ở hai cung Thìn hoặc Tuất, ở cung
Thìn ắt sẽ đồng độ với Đà la, ở cung Tuất thì bị Kình Đà hội chiếu. So
sánh hai trường hợp, ở cung Thìn thì lúc trẻ gặp nhiều hiểm trở, đường
đời gập ghềnh, ở cung Tuất thì có tinh thần tiến thủ mạnh. Cung Tài là
Phá quân, cung Quan là Thất sát, chủ về không chuyên giữ một nghề, phần
nhiều đều làm nhiều công việc hay kiêm nhiều chức vụ, hoặc thường đảm
nhận thêm nhiệm vụ quan trọng. Ngoài những điều vừa thuật ở trên, thì
tinh hệ này là kết cấu Tham lang tọa mệnh khá ổn định. Nhưng đối với nữ
mệnh, dễ có bất mãn trong hôn nhân, có thể chỉ vì dựa vào kinh tế của
chồng mà phải duy trì cuộc hôn nhân.
Tinh hệ "Liêm trinh Tham lang" thủ mệnh ở hai cung Tị hoặc Hợi, mà Tham
lang hóa Lộc, còn có Lộc tồn đồng độ hoặc vây chiếu. Cung Tài là "Tử vi
Phá quân" không chủ về tích lũy tiền bạc, cho nên khi hội hợp hai cung
độ này, sẽ có bản chất cực kỳ chú trọng vẻ bề ngoài. Cung Quan là "Vũ
khúc Thất sát", tam phương tứ chính có đào hoa trung trùng, rất thích
hợp với ngành có tính giải trí, vui chơi, hưởng thụ. "Vũ khúc Thất sát" ở
cung Dậu có thể theo nghề ảm thực. Có điều nếu gặp các sao khoa văn hội
hợp, lại thường là nhân tài chuyên nghiệp, như bác sỹ khoa phụ sản,
.v.v...
6- Vũ khúc - can Kỷ hóa Lộc
Vũ khúc là sao tiền tài, còn chủ về hành động, nên ưa hóa Lộc. Vì chủ về
hành động, tất nhiên dễ tạo dựng sự nghiệp, hơn nữa sự nghiệp càng lớn
thì tài lộc càng dồi dào. Nếu muốn tính toán tài phú của người này,
không thể chỉ nhìn xem anh ta có tích lũy hay không, mà tài sản của anh
ta thường thường cũng là vốn liếng của cty.
Vũ khúc hóa Lộc mà có tứ Sát đồng độ, chủ về lấy tay nghề, công nghệ để
kiếm tiền. Làm ăn tốt, nên nguồn tiền tài không thiếu, có điều nếu nghỉ
hưu thì không có thu nhập, do đó cần phải chú ý tích lũy. May mà Vũ Khúc
có bản chất giỏi quản lý tài chính, trừ khi cung Tài quá thậm tệ, nếu
không phần nhiều đều có tích lũy.
Vũ Khúc hóa Lộc rất kị có Văn Khúc hóa Kị hội hợp (can Kỷ), sẽ chủ về
nghề nghiệp chính thức thì có thể kiếm tiền, nhưng đầu tư ắt sẽ bị tổn
thất, do đó việc tích lũy sẽ giảm đi nhiều.
Nữ mệnh không ưa Vũ Khúc hóa thành sao Lộc, chủ về làm tăng mạnh thêm cơ hội độc thân.
Tinh hệ "Vũ khúc Thiên phủ" thủ mệnh ở hai cung Tý hoặc Ngọ mà Vũ khúc
hóa Lộc, là kết
Nguồn: ST & Tổng hợp từ Internet: Ngọc Sương (XemTuong.net)