GIẢI LÝ VỀ LỤC HẠI, TỨ TUYỆT, BÁT SAN, THIÊN CAN KHẮC HẠP CHO VỢ CHỒNG
Tử vi đã xác định rằng hôn nhân nên tránh Tứ Tuyệt và Lục Hải bởi phạm vào là mạng hệ không lường. Đường tử tuất hiếm muộn bất thường và duyên nợ cũng như nghiệp danh nửa chừng lở dở.
Theo đó chúng ta nên biết để giữ cho chính bản thân và anh em, con cái trưởng thành để sau này khi cần tác hợp lứa đôi.
Về tứ tuyệt : người tuổi Tý kỵ tuổi Tỵ, tuổi Dậu kỵ tuổi Dần, tuổi Ngọ kỵ tuổi Hợi và tuổi Mẹo kỵ tuổi Thân. Hơn thế nữa phép gả cưới còn tránh 4 tuổi bất lợi ( gọi là tứ hành xung ) gồm có : Tý,
Ngọ, Mẹo, Dậu ­ Thìn, Tuất, sửu, Mùi ­ Thân, Dần, Tỵ, Hợi ­ Nhược bằng phạm phải vợ chồng ắt gian truân, gia đạo tắùc biến và như thế khổ buồn năm tháng biết thuở nào khuây.
Về lục hại : hai người tuổi Tý hại tuổi Mùi, tuổi Sửu hại tuổi Ngọ, tuổi Dần hại tuổi Tỵ, tuổi Mẹo hại tuổi Thìn, tuổi Thân hại tuổi Hợi...
Vợ chồng mà bị Lục Hại không khác gì đương không mang của nợ vào nhà. Rồi thì bệnh hoạn đau ốm tự nó làm cho hai người mất hết sinh lực, chán chê tình ái, phiền muộn căn duyên đưa đến mỗi người một nẻo, chẳng gì tốt hơn hết lúc sơ giao trai gái nên đề phòng hậu quả đó.
Về Thiên Can khắc hạp : Thiên Can có 10 ( gọi là thập Thiên Can ). Đó là Giáp, ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Thí dụ : người chồng mang tuổi Giáp Tý, khắc với tuổi người vợ mang tuổi Canh Tuất và Aát Sửu khắc với tuổi Tân Mẹo chẳng hạn.
Dưới đây là Thiên Can được tử vi xác định rằng Kỷ nhưng khắc Canh, Aát hạp Canh khắc Tân, Bính hay Tân khắc Nhâm, Đinh hạp Nhâm khắc Quý, Mậu hạp Quý khắc Giáp, Nhâm Đinh hạp Nhâm khắc Quý, Mậu hạp Quý khắc Giáp, Kỷ hạp Giáp khắc Aát, Canh hạp Aát khắc Bính, Tân hạp Bính khắc Đinh, Nhâm hạp Đinh khắc Mậu, Quý hạp Mậu khắc Kỷ.
Về hệ bát san : Bát San hệ gồm tám cung, được gọi là Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.Vợ chồng phối ngẫu nên tránh tuyệt mạng bởi người Cung Càn kỵ Ly, Khảm kỵ Khôn, Cấn kỵ Tốn, Đoài kỵ Chấn và ngược lại.
Tránh giao chiến bởi người cung Càn kỵ Tốn, Khôn kỵ Cấn, Ly kỵ Đoài, Chấn kỵ Tốn, Khảm kỵ Ly, Khôn kỵ Ly, Khôn kỵ Chấn, Càn kỵ Khôn, nếu vì bất cứ một lẽ gì mà trai gái không tránh được ắt là sớm muộn rồi cũng khó khăn ở bền vững.
Trong trường hợp kết nạp lứa đôi hoặc vô tình cố ý đều bị hệ lụy.

BẢNG LẬP THÀNH CUNG MẠNG NAM NỮ KẾT HỢP HÔN NHÂN
Khoa tử vi lý số là phép cấu tạo các yếu tố căn bản chính xác để giải đoán hiện tại, cũng như tương lai của mỗi người, nhằm trên định thức cố hữu là tuổi tác, ngày, giờ, tháng, năm sanh để tìm ra hiện tượng tốt xấu chung quanh tình duyên gia đạo sự nghiệp và công danh. Riêng phần đặc biệt giành cho nam nữ đưa đến kết hợp hôn nhân, theo đó còn có Cung Mạng, mà chiêm tinh học gọi là

" Bát san tuyệt mạng" hoặc " Bát san giao chiến" chẳng hạn.
Muốn các bạn nhận định rõ ràng, hiểu biết tường tận qua lối trình bày sau đây, nếu không nói là công phu tỷ mỉ,thì cũng chẳng nông nổi thiếu sót đối với các bạn cần được thỏa mãn phần nào nhu cầu thích đáng trong đời sống, nhứt là vấn đề hạnh phúc lứa đôi.



Giải thích : cách theo dõi để tìm hiểu Cung Mạng Nam Nữ có được kết hợp hôn nhân hay không, tốt hoặc xấu, các bạn chỉ cần liếc mắt qua hàng ngang bởi những " khung kẽ" bắt đầu từ phía trái sang phải : Nam cung gì ? Nữ cung gì ? Tốt sấu, sống chung.. và bắt đầu bằng chữ Càn trong số 8 cung là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.

BẢNG LẬP THÀNH NGŨ HÀNH HÒA HỢP HÔN NHÂN NAM NỮ TƯƠNG SANH VÀ XUNG KHẮC.
Phàm hễ thông thường định lý của tử vi thì có " bốn thứ kỵ" là gồm các tuổi : Dần, Thân, Tỵ, Hợi, - và Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, - Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu, - tổng số tất cả 12 con giáp được chia là hỏi phần bao trùm " tứ kiểu kỵ" mà khoa chiêm tinh học gọi là " tứ hành xung" cũng vậy.

Các tuổi này, nếu bất cứ vì lý do nào hoặc vô tình hay cố ý đưa đến cho nam nữ kết hợp hôn nhân, tức là sự chung sống không sớm thì muộn thế nào cũng có xảy ra : gia đạo bất hòa, kinh doanh thất bại, khốn khổ gian lao và cuối cùng là sanh ly tử biệt.
Theo đó trước hết là vấn đề dựng vợ gả chồng ăn đời ở kiếp với nhau. Trong tâm của hôn nhân là Hòa Hợp là phải tìm tuổi tương sanh nam nữ gồm có " tam hạp" là : Thân, Tý, Thìn ­ Dần, Ngọ, Tuất ­ Dậu, Tý, Sửu ­ Mùi, Mẹo, Hợi ­ ba tuổi này được coi như cố hữu định thức của số mạng sum vầy, thuận thảo, phát đạt, bền vững.
Ngoài ra còn có các tuổi " đại lợi đại hạp" như Tý Sửu ­ Mẹo Tuất ­ Dần Hợi ­ Thìn Dậu ­ Ngọ Mùi ­ Tỵ Thân ­ Nó trái với tuổi " đại khắc đại kỵ" như Dần Tỵ ­ Sửu Ngọ ­ Tý Mùi ­ Mẹo Thìn ­ Dậu Tuất ­ Thân Hợi ­ Cứ hai tuổi này (2) gặp nhau và chung sống giữa nam nữ là phải gây phiền lụy, khốn đốn bệnh tật, tiêu hao tù tội và có khi chết chóc nữa là đằng khác.
Càng quan hệ hơn nữa đối với nam và nữ trong vấn đề hôn nhân gây dựng hạnh phúc, khoa chiêm tinh học đã dành cho các bạn sự tự chọn lựa " ý trung nhân" của mình bằng cách tìm hiểu về định lý tương đồng, tương sanh trong phép ngũ hành hòa hợp để trai gái có thể theo bảng lập thành như sau đây qua Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Đại loại :
Thí dụ mạng nam Kim thì nữ mạng gì ?



 

Phụ giải : Phàm hễ học giỏi, tìm hiểu thì phải chủ tâm cho cặn kẽ, tường tận để được minh bạch, thấu đáo, rành mạch về các khoa chiêm tinh tử vi lý số, theo đó đại để qua bản lập thành hôn nhân ngũ hành hòa hợp, bạn đọc cũng nên lưu ý bởi các điểm ghi nhận dưới đây :
A ­ Mạng Mộc ( nam hay nữ cũng như nhau) thì chỉ khắc kỵ với mạng Thổ. Nhưng nếu mạng Mộc hoặc Thổ ở vào ngôi Đại lâm Mộc hay Đại thổ Trạch, cố nhiên là vượt qua khỏi thâm canh thiên sanh, tức hóa giải, hòa hợp mà song mạng vợ chồngđược tài lộc, quan vị, có uy thế là khác.
B ­ Mạng Mộc(hai mạng nam hay nữ cùng là Mộc ) hoặc gọi là lưỡng Mộc tức biến thành Lâm ( rừng ) cũng như lưỡng Thổ ( hai mạng cùng là Thổ ), tức biến thành Sơn ( núi ). Được vậy mới tương hạp tương sanh, nam nữ kết hợp trường tồn hạnh phúc.

NGŨ HÀNH NẠP ÂM
Trong "Lục thập hoa giáp" mỗi ngôi do một can và một chi, thuộc về chánh ngũ hành,hiệp lại thành. Như ngôi : Giáp Tý, can là Giáp thuộc Mộc, chi là Tý thuộc Thủy.
Nếu can và chi hiệp với nhau, theo nhạt luật thì hóa thành một thứ ngũ hành khác, không giống chánh ngũ hành nói trên. Như Giáp và Tý hiệp với nhau hóa thành Hải trung Kim gọi là ngũ hành nạp âm.
lục Thập Hoa Giáp có 60 ngôi phân phối cho năm âm ( cung, thương, giác, thủy, vũ ). Một luật nạp ( gồm thâu ) năm âm, thành ra 12 luật phải nạp 60 âm.
Khí phát ở phương đông và hữu hành ( đi về hướng tay mặt ) còn âm ( tức là năm âm ) khởi ở phương tây và tả hành ( đi về hướng tay trái ). Khí và âm đi ngược chiều nhau mới có sanh biến hóa.
Đây nói : " khí phát ở phương đông" có nghĩa là : bốn mùa phát từ đông và hữu hành.
Mộc truyền qua Hỏa, hỏa truyền qua Thổ, Thổ truyền qua Kim, Kim truyền qua Thủy.
Còn nói ( âm khởi ở phương tây ) có nghĩa là : năm âm khởi tại kim và tả hành : Kim truyền qua hỏa, Hỏa truyền qua Mộc, Mộc truyền qua Thủy, Thủy truyền qua Thổ.
Theo phép nạp âm, ứng theo nhạc luật, can chi đồng loại chủ thể, cách bát sanh tử, có nghĩa là : Mỗi can chi lấy vợ đồng loại với mình mà sanh con cách tám ngôi. Phải khởi tính ở ngôi Giáp Tý ( coi bản đồ số một chữ Giáp Tý ).
Giáp Tý đồng loại với Aát Sửu ( cả hai đều thuộpc Kim thương Ngươn). Lấy Aát Sửu làm vợ, cách 8 ngôi sanh con là Nhâm Thân ( thuộc Kim trung Ngươn).

BẢN ĐỒ NGŨ HÀNH NẠP ÂM (HÌNH VẼ )
Nhâm Thân đồng loại với Quý Dậu ( cả hai thuộc Kim trung Ngươn) lấy Quý Dậu làm vợ, cách 8 ngôi sanh cháu là Canh Thân ( thuộc Kim hạ Ngươn ).
Tới đây Kim tam Ngươn hết rồi, nên tả hành truyền qua Hỏa ở phương Nam.
Canh Thìn đồng loại với Tân Tỵ ( cả hai đều thuộc Kim hạ Ngươn ). Lấy Tân Tỵ làm vợ, cách 8 ngôi truyền qua Mậu Tý là hành khác ( thuộc Hỏa thượng Ngươn ) lấy Tân tỵ làm vợ, cách 8 ngôi truyền qua Mậu Tý là hành khác ( thuộc Hỏa
thượng ngươn ).
Mậu Tý đồng loại với Kỷ Sửu làm vợ, cách 8 ngôi sanh con là Bính Thân ( thuộc Hỏa trung Ngươn ).
Bính Thân đồøng loại với Đinh Mậu( cả hai đều thuộc Hỏa trung ngươn ), lấy Đinh mậu làm vợ cách 8 ngôi sanh cháu là Giáp Thìn ( thuộc Hỏa hạ Ngươn ).
Tới đay Hỏa tam Ngươn hết rồi, nên tả hành truyền qua Mộc ở phương đông.
Cứ vậy mà tả hành ( hết Mộc rồi tới Thủy, hết Thủy thì đến Thổ ) cho đến ngôi Bính Thìn,
Đinh Tỵ ( thuộc Thổ hạ Ngươn ) đi giáp một quận ngũ hành thì gọi là tiểu thành.
Rồi bắt đầu trở lại Kim thượng ngươn ở ngôi Giáp Ngọ ( coi bản đồ số 1 chữ Giáp Ngọ ).
Giáp Ngọ đồng loại với Aát Mùi ( cả hai đều thuộc Kim thượng ngươn ) lấy Ất Mùi làm vợ cách 8 ngôi sanh con là Nhâm Dần ( thuộc Kim trung ngươn ).
Nhâm dần đồøng loại với Quý Mẹo ( cả hai đều thuộc Kim thượng ngươn) lấy quý mẹo làm vợ, cách 8 ngôi sanh cháu là Canh Tuất ( thuộc Kim hạ ngươn ). Tới đây Kim tam ngươn hết rồi, nên tả hành truyền qua Hỏa, (hết Hỏa rồi tới Mộc, hết
Mộc thì tới Thủy, hết Thủy thì tới Thổ ) như nói trên.
Cứ tính như vậy, cho tới ngôi Bính Tuất, Đinh Hợi ( thuộc Thổ hạ ngươn ) đi giáp một quận ngũ hành nữa gọi là đại thành.

NÓI VỀ PHÉP NẠP ÂM CỦA LỤC GIÁP
1- Giáp Tý
2- Giáp Tuất
3- Giáp Thân
Nạp âm là đem một chữ thuộc về Can và một chữ thuộc về Chi gép lai với nhau, để hợp vào với ngũ hành như là :
1 ­ GIÁP TÝ, ẤT SỬU      thuộc        Kim
BÍNH DẦN, ĐINH MẸO      -           Hỏa
MẬU THÌN, KỶ TỴ             -           Thổ
CANH NGỌ, TÂN MÙI      -          Thổ
NHÂM DẦN, QUÝ DẬU    -          Kim

2 ­ GIÁP TUẤT, ẤT HỢI - Hỏa
BÍNH TÝ, ĐINH SỬU - Thủy
MẬU DẦN, KỶ MÃO - Thổ
CANH THÌN, TÂN TỴ - Kim
NHÂM NGỌ, QUÝ MÙI - Mộc

3 ­ GIÁP THÂN, ẤT DẬU
- Thủy
BÍNH TUẤT, ĐINH HỢI - Thổ
MẬU TÝ, KỶ SỬU - Hỏa
CANH DẦN, TÂN MẸO - Mộc
NHÂM THÌN, QUÝ TỴ - Thủy

4 ­ GIÁP NGỌ, ẤT MÙI - Kim
BÍNH THÂN, ĐINH MẬU - Hỏa
MẬU TUẤT, KỶ HỢI - Mộc
CANH TÝ, TÂN SỬU - Thổ
NHÂM DẦN, QUÝ MẸO - Kim

5 ­ GIÁP THÌN, ẤT TỴ - Hỏa
BÍNH NGỌ, ĐINH MÙI - Thủy
MẬU THÂN, KỶ DẬU - Thổ
CANH TUẤT, TÂN HỢI - Kim
NHÂM TÝ, QUÝ SỬU - Mộc

6 ­ GIÁP DẦN, ẤT MẸO - Thủy
BÍNH THÌN, ĐINH THÌN - Thổ
MẬU NGỌ, KỶ MÙI - Hỏa
CANH THÂN, TÂN DẬU - Hỏa
NHÂM TUẤT, QUÝ HỢI - Thủy
Trong 60 năm chia làm 6 phần, mỗi phần 10 năm, bắt đầu từ chữ Giáp đến chữ Quý cho nên gọi là
Lục Giáp như :
4 ­ Giáp Ngọ
5 ­ Giáp Thìn
6 ­ Giáp Dần
NGŨ HÀNH NẠP ÂM TƯƠNG SANH
Bảng số 2 TIỂU THÀNH


 


 


 



 

Ở trong mỗi quân ( tiểu thành và đại thành nói trên ) hai bên cách 8 ngôi sanh con là tốt.
Trong đó chúng ta còn thấy: theo chánh ngũ hành thiên cương tương sanh, đia chi tam hạp lại càng gia tăng sự tốt hơn nữa.
Thí dụ: giáp tý, ất sửu, sanh nhâm thân, quý dậu, nhâm thân, quý dậu sanh canh thìn, thân tỵ ...
Giáp tý, ất sửu, kim thượng ngươn sanh nhâm thân, quý dậu: kim trung ngươn sanh canh thìn, tân tỵ, kim hạ ngươn. Trong đó theo chánh ngũ hành, nói về thiên can thì giáp và nhâm, nhâm và canh tương sanh. Luận về địa chi thì thân tý thìn là tam hạp thủy cuộc thế thì ngũ hành nạp âm tương sanh. Vậy là không khá.
Vào những trường hợp nói trên đó, cả hai bên xét về ngũ hành, can chi đặng tương sanh tương hạp. Còn về ngũ hành nạp âm thì đồng một loại. Cho nên gọi là đại kiết.
Về cách 8 ngôi sao cháu, vì có can tương khắc thì sự tốn kém hơn. Nhưng nếu bổn mạng khắc ngay dùng thì cũng không đáng lo ngại.
Thí dụ : giáp tý sanh con là nhâm thân thì tốt, mà sanh cháu canh thìn thì sự tốt không bằng, vì có giáp và canh khác nhau.
Nhưng nếu canh thìn bổn mạng, giàp tý ngay dùng thì ngày không khắc mạng, cũng không mấy hại. Đó gọi là bang xung ( xung một bên ) chớ không phải là chánh xung ( xung ngay tẩy ).
Ta hãy nhận rõ hai bản tiểu thành và đại thành ghi trên mỗi đoạn có ba hàng:
Hàng thứ nhất sanh con , cách 8 ngôi, là đại kiết như trên đã nói:
Hàng thứ nhì sanh cháu, cách 8 ngôi nữa là thứ kiết, cũng đã nói như trên.
Hàng thứ ba: loại ngũ hành này truyền qua loại ngũ hành khác.
Nếu gặp nạp âm tương sanh đều là đại kiết. Còn gặp nạp âm tương khắc có khi xấu, cũng có khi tốt. ( coi bài C sau này).

C. NGŨ HÀNH NẠP ÂM TƯƠNG KHẮC
Theo chánh ngũ hành, kim khắc mộc, mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, mỗi lần thấy khắc là luôn luôn có hại hại.
Theo ngũ hành nạp âm, có khi hình này khắc hình kia, không phải là xấu, lại nhờ khắc đó mà ra tốt. Chớ không phải mỗi lần khắc là xấu cả.

XEM 5 BÀI THƠ SAU ĐÂY, MỖI BÀI THUỘC VỀ MỘT HÀNH KIM
Sa trung kim, kiêm phong kim, lưỡng bán cầm nhược củ chấn địa tiên tương xâm.
Ngoại hữu tứ kim tu kỵ hỏa .
Kiếm, sa vô hỏa, bất thàng hình.
Nghĩa là: hai thứ ngũ hành nạp âm là: sa trung kim và kiêm phong kim nếu gặp mộc thì nó khắc ngay. Ngoài ra còn bốn thứ khác là: hải trung kim, bạch lập kim, xoa xuyến kim, đều là kỵ hỏa.
Còn kiếm phong kim và sa trung kim chẳng những không kỵ hỏa mà trái lại còa phải nhờ hỏa mới nên hình ( thành môn khí cụ ) giữa nếu như can chi gặp thiên khắc địa xung ( ví dụ nhâm thân, quý dậu là kiếm phong kim gặp bính dần, đinh mẹo là lư trung hỏa) thì phải tránh lá tốt hơn.

HÀNH HỎA
Phúc đăng lư hỏa kỷ sơn đầu.
Tam gia nhuyễn lai phạ thủy lưu. sợ thủy.
Ngoại hữu tam ban bất phạ thủy.
Nhứt sanh y lộc, cận vương hầu.
Nghĩa là: ba thứ hỏa là: phúc đăng hỏa, lưu trung hỏa, sơn đầu hỏa đều sợ thủy khắc.
Ngoài ra có ba thứ khác là: thiên thượng hỏa, thích lịch hỏa, sơn hạ hỏa lại không sợ thủy.
Trái lại nếu có thủy khắc thì các mạng đó sẽ đặng một đời y lộc đầy đủ, gần bực vương hậu.

HÀNH MỘC
Tòng bá, dương liễu, tang đố mộc
Thạch lựu đại lâm kỵ kim đao
Duy hữu thản nhiên bình địa mộc

Vô kim, bắt đặng thượng thanh vân.
Nghĩa là : 5 thứ mộc là : tòng bá mộc, dương liễu mộc, tang đố mộc, thạch lựu mộc, đại lâm mộc đều bị kim khắc.
Chỉ có một thứ bình địa mộc ( gỗ ) chẳng những không sợ kim khắ mà trái lại, nếu khong có nhờ kim khắc, thì khó cầu công danh phú quý.

HÀNH THỦY
Thủy kiến: Thiên hà, đại hải lưu
Nhị giả bất phạ thổ vì cừu
Ngoại hữu số ban tu kỵ thổ
Nhứt sanh y lộc tất nan cầu
Nghĩa là : 2 thứ thủy là thiên hà thủy và đại hà thủy không khi nào sợ thổ khắc. Nhưng nếu gặp can chi thiên khắc địa xung ( ví dụ: bính ngọ, đinh mùi là thiên hà thủy gặp canh tỵ, tân sửu là bích thượng thổ) thì phải tránh là tốt hơn.
Ngoài ra các thứ thủy khác là giang hà thủy, tuyền trung thủy, trường lưu thủy, đại khê thủy, đều bị thổ khắc. Nếu bị thổ khắc, tất nhiên một đời khó cầu y lộc.

HÀNH THỔ
Thành đầu, ốc thượng dữ bích thượng
Tam Thổ nguyên lai pha mộc xung
Ngoại hữu tam ban bất phạ Mộc
Nhứt sanh thanh quý bộ thiềm cung
Nghĩa là : Ba thứ Thổ là Thành đầu Thổ, Oác thượng Thổ, và Bích thượng Thổ vvốn sợ Mộc xuyên khắc.
Ngoài ra có ba thứ Thổ các là : Lộ bàng Thổ, Đại dịch Thổ và sa trung Thổ đều không sợ Mộc.
Trái lại nếu có Mộc khắc càng hay, đồi người sẽ đặng thanh khiết,cao sang vào trường thi là đậu (đăng khoa).

NGŨ HÀNH NẠP ÂM TÌ HÒA
Tì Hòa có nghĩa là: Hai bên ngũ hành thì cùng chung một loại, không khác nào anh em ngang vai cùng nhau. Tỉ như Mộc vớ Mộc, Hỏa với Hỏa, vv...
Tì Hòa có tôtù mà cũng có xấu: Như nạp Aùm (coi bài phía trước) trúng tương sanh nói trên là tốt,thì người ta nói :
Lưỡng Hỏa thành viêm (lửa nóng)
Lưỡng Mộc thành lâm (rưng)
Lưỡng Thô thành sơn (núi)
Lương Kim thành khí (món đồ dùng)
Đây nói hai bên cùng đồng một loại ngũ hành cùnh hiệp với nhau mà can chi sanh hạp, giúp thêm sức mạnh là tốt.
Tỷ như giáp thìn, Aâts Tỵ,phức đăng Hỏa (lửa đèn) và Bính Thân Đinh DẬulà sơn hạ Hỏa
Tỷ như giáp thìn, Aát Tỵ , Phúc đăng Hỏa (lửađèn) và Bính Thân Đinh Dậu là Sơn hạ Hỏa (lửa dưới núi)hai bên sanh hạp lẫn nhau , mới thêm sức nóng , sức dánh gọi là :
Lưỡng Hỏa thành viêm.
Còn như sấu thì người ta nói:
Lưỡng Mộc Mộc chiết.
Lưỡng Kim Kim khuyết.
Lưỡng Hỏa Hỏa diệt .
Lưỡng Thổ Thổ kiệt.
Như hai bên cùng đồng thuộc về một ngũ hành nạp âm như nhau mà có can khắc hay chi xung.
Nếu bổn mạng bị xung khắc thì không nên dùng. Vào trường hợp này , khi nào có một lượt vừa can vừa khắc ,vừa chi xung. Tỷ như mậu tý, Kỷ Sửu là Thích lịch Hỏa (lửa sấm xét) và Mậu Ngọ. Kỷ Mùi là Thiên thượng Hỏa (lửa trên trời )hai bên thiên can đòng một loại mà địa chi lại tương xung.Nếu hai bên gặp nhau thì bổn mạng bị xung hay khắcthì gọi là:Lưỡng Hỏa Hỏa diệt .
Cũng có sách nói:Hai bên đòng một thứ ngũ hành, cả hai bên đều yếu sức mà gặp nhau thì tốt. Như lửa đèn và lửa dưới núi gặp nhau thìgọi là Lưỡng Hỏa thành viêm.Còn hai bên đồng một thứ ngũ hành cả hai đều mạnh sức mà gặp nhau thì xấu. Như hiệp lửa sấm sét và lửa trên trời nói trên thì đó là: Lưỡng Hỏa Hỏa diệt .
Thuyết này chưa chắc đúng , không nên quá tin theo . vì dù yếu hay mạnh sức mà can chi tương sanh tương hạp hay là can chi tuy xung khắc bổn mạng thì cũng ít hại . Ngũ hành nạp âm tương khắc còn có khi tốt thay huống hồ là hai bên tỳ hòa cùng nhau , phần tốt lấn hơn phần xấu là dùng được rồi .
Cần nên lưu ý:Chánh ngũ hành là phần căn bản , còn ngũ hành nạp âm là phụ thuộc mà thôi.
Cách tìm tuổi và mạng để biết thuộc hành nào?
Muốn biết tuổi mình thuộc về hành hỏa hay hành nào khác thì phải học thuộc lòngba câu chữ rất thông dụng xưa nay như sau :
1.- Về con Giáp Tý, Giáp Ngọ :Ngân(kim) đăng (Hỏa) già (Mộc) Bích (Thổ) câu (Kim).
2.-Về con Giáp Tuất ,Giáp Thìn:yên (Hỏa) Mãn(Thủy) Tư (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc).
3.-Về con Giáp Dần , Giáp Thân : Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp(Thủy).
Rồi đem nó vào bàn tay mà đón . Mỗi mọt chữ gồm luôn luôn hai chi. Cho nên đọc chư đặng thì băm luôn Dần Mẹo hoặc Thân Dậu v.v... tùy theo con Giáp Tý hay là Giáp Ngọ .
Xem bản đồ 4-5-6 sau này thì rõ.
 

Bản đồ số 04

 


 


Bản đồ só 05


 


 


Bản đồ số 06


 


 


 

Mỗi việc gì cần nên coi người vai chánh.
Như về việc cưới gả, thì coi tuổi của đôi vợ chồng đặng sanh hạp là tốt, bị xung khắc là xấu, coi ngày chọn dùng làm lễ hỏi hay lễ cưới có xung khắc với hai tuổi đó không. Mặc dầu lịch ghi ngày và mạng xung khắc với nhau, thì ngày ấy cũng hóa ra xấu.
Về việc dựng các việc khác thuộc dương, thì nên coi tuổi của người chủ trương việc làm.
Còn về việc chôn cất hay các việc khác thuộc âm thì coi tuổi của hóa mạng ( người chết ) và người chủ tế là đủ. Chẳng cần phải coi đọng đến các con cháu khác nữa.

Phần kết : coi cho 12 tuổi ( 12 can ) từ giáp tý đến Quý Hợi theo mùa sanh, được mùa hay lỗi mùa, sướng cực, giàu nghèo đều ghi rõ sau đây :
Mùa xuân : Tháng Giêng Tháng Hai Tháng Ba
                      (Dần )        ( Mẹo )
Tháng giêng và hai thuộc Mộc
Tháng ba thuộc Thổ
Mùa Hạ : Tháng Tư Tháng Năm Tháng Sáu
                  ( Tỵ )     ( Ngọ )         ( Mùi )
Tháng tư và năm thuộc Hỏa
Tháng sáu thuộc Thổ
Mùa Thu : Tháng Bảy Tháng Tám Tháng Chín
                    ( Thân )    ( Dậu )     ( Tuất )
Tháng Bảy, Tháng Tám thuộc Kim
Tháng Chín thuộc Thổ
Mùa Đông : Tháng Mười Tháng Mười Một Tháng Chạp
                      ( Hợi )         ( Tý )                   ( Sửu )
Tháng Mười, tháng Mười Một thuộc Thủy

Tháng Chạp thuộc Thổ.
Mùa Xuân : thì Mộc vượng, Hỏa tướng, Thổ tử, Kim tù, Mộc lưu
Mùa Hạ : Thì hỏa vượng, Thổ tướng, Kim tử, Thủy tù, Mộc lưu.
Mùa Thu : Thì Kim vượng, Mộc tướng, Hỏa tử, thổ tù, Kim lưu.
Mùa Đông : Thì Thủy vượng, Mộc tướng, Hỏa tử, Thổ tù, Kim lưu.
Giải nghĩa : Vượng là tướng tốt
Tử là xấu nhất
Tù là xấu nhì
Lưu là xấu thứ ba.
** Đoán vận mạng cho tuổi GIÁP TÝ ( NỮ MẠNG )
Sanh năm : 1864 đến 1924 ­ 1984 đến 2044
Cung CHẤN, mạng HẢI TRUNG KIM ( vàng dưới biển )
Xương CON CHUỘT Tướng tinh CON CHÓ SÓI.
*
Bà Cửu Thiên Huyền Nữ độ mạng


4 cửa thông nhau vân Máy cung bảo bình nam khi yêu xem tướng NhÃƒÆ mơ thấy ma quỷ tu sao thiên khôi tuổi ất mão xem đại hạn tuổi Canh Thân TửVi Tỉnh tiên Nhà một phòng cần chú ý đặc biệt về hằng ngày Chọn vợ nhung cuộc sống thuận lợi sao thiên Cơ Sao Đà La Thúy Phòng thuy ân So bể QUẢ TÚ moi tứ mơ thấy mất tiền cầu tự Bình xem tử vi Quẻ Quán Âm chữ ký Khà Đắc Nhân Quả văn phòng tuổi tỵ hu quả báo Thứ nhã æ Số điện thoại tổn イーラパーク静岡県東部 Tài Thập bán cây quế vị kỷ mùi 1979 điểm Nhâm Thìn vムxay Giờ Chữ Tuoi quy mui dac tinh HOA xem boi chi tay mãy phẫu thuật tướng người tốt xấu phận